Hồng đậu khấu được dùng chữa đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa, lỵ và phối hợp với than tóc rối uống chữa ngộ độc thịt cóc. Riềng nếp muối dùng một nhúm ngậm, cắn nhẹ và nuốt dần dần làm khỏi khát, đỡ mệt khi làm việc mệt nhọc hoặc đi nắng nhiều khát nước.
Thân rễ riềng nếp được ghi trong được điển nhiều nước châu Âu, và được dùng rộng rãi trong y học cổ truyền trị bệnh da, bệnh hô hấp, làm thuốc lợi tiêu hóa sau khi đẻ, khó tiêu, đầy hơi, cơn đau bụng, lỵ, ung thư miệng và dạ dày, nhiễm khuẩn toàn thân, bệnh dịch tả và làm thuốc long đờm. Ở Trung Quốc, Lào và Campuchia, thân rễ được uống chống co giật, gây trung tiện và long đờm, trị lỵ, trị viêm phế quản, và dùng ngoài trị thấp khớp, ở Thái lan, thân rễ được dùng trị nhiều bệnh, làm thuốc lọc máu, trị khó tiêu, dụng dập, tiêu chảy, nhiễm khuẩn uốn ván, sốt rét mạn tính, bệnh tê phù, ghẻ cóc, đau dạ dày, bệnh dịch tả, ngứa, nấm da, bệnh da, chốc lở, mày đay, đau răng, trị giun, chống co thắt, gây trung tiện, đầy hơi.
Ở Philippin, thân rễ được dùng gây trung tiện, kích thích, và nước sắc lá dùng làm nước tắm thấp khớp, ở Indonesia, thân rễ nạo nhỏ trộn với ít muối uống lúc đói tri lách to, và nước ngâm thân rễ uống trị bệnh phong, ở Malaysia, hạt được dùng trị cơn đau bụng, tiêu chảy, nôn và bệnh herpes, nước hãm lá dùng cho phụ nữ uống sau khi đẻ. Trong y học dân gian Ấn Độ, thân rễ dùng tn đầy hơi, khó tiêu, thấp khớp và bệnh viêm xổ, đặc biệt trong viêm xổ phế quản, và cùng với hồ tiêu và gừng trị sốt. Cao lá dùng bôi trị ngứa và bệnh dị ứng da, chữa sỏi thận, phối hợp với 3 dược liệu khác chữa viêm khớp dạng thấp